Theo Nghị định 53, Chính phủ đã quyết định thay thế Phụ lục II “Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép tại Nghị định 58” bằng Phụ lục II “Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép kèm theo Nghị định 53”.
Đối với việc áp dụng Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, Nghị định mới nêu rõ, Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép chỉ áp dụng đối với các sản phẩm mật mã dân sự mà cả mã số HS, tên gọi và mô tả chức năng mật mã trùng với mã số HS, tên gọi và mô tả chức năng mật mã của hàng hóa thuộc Danh mục.
Trường hợp có sự khác biệt trong việc xác định mã số hàng hóa tại Danh mục ban hành kèm theo Nghị định này và Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam, Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng (Ban Cơ yếu Chính phủ) để quyết định mã số HS đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Cũng theo quy định tại Nghị định 53, giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự đã được cấp cho doanh nghiệp tiếp tục có hiệu lực theo thời hạn ghi trên Giấy phép đối với sản phẩm mật mã dân sự mà tên gọi phù hợp với Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam. Cơ quan Hải quan căn cứ vào Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự đã được cấp và thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để xác định mã số HS và giải quyết thủ tục thông quan cho doanh nghiệp.
Nghị định 53 có hiệu lực ngay từ ngày 16/4/2018. Chi tiết về Nghị định 53/2018/NĐ-CP và Phụ lục II Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép kèm theo Nghị định 53 (Tại đây).