Chính sách Bảo mật thông tin cho các tổ chức, doanh nghiệp

15:02 | 01/11/2011

Thông tin là một trong những tài sản quan trọng, quý giá đối với tổ chức, doanh nhiệp (TC/DN). Những rủi ro đối với các thông tin như bị lộ, bị thay đổi, bị mất mát, bị từ chối đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động, uy tín, chiến lược của TC/DN.

Vì vậy, mục tiêu đưa ra là cần phải bảo vệ an toàn thông tin, đảm bảo tính bí mật, tính toàn vẹn, tính sẵn sàng. Việc đảm bảo được các yếu tố trên sẽ giúp TC/DN bảo vệ tính bảo mật của thông tin, chống lại việc thay đổi, phá hủy hay mất mát thông tin.

Hiện trạng của việc xây dựng hệ thống bảo mật thông tin (BMTT)

Tại Việt Nam, các TC/DN cũng đã xây dựng các giải pháp để đảm bảo an toàn hệ thống như trang bị hệ thống tường lửa (Firewall), hệ thống chống xâm nhập (IPS), hệ thống phòng chống virus.... Tuy nhiên, tất cả chỉ đơn thuần là giải pháp công nghệ. Câu hỏi đặt ra là hệ thống đã được trang bị giải pháp bảo mật nhưng mức độ an toàn đến đâu, giải pháp đã tốt chưa, đã đầy đủ chưa? Tổ chức thực hiện giải pháp đã tốt hay chưa, con người thực hiện giải pháp như thế nào, họ đã ý thức các vấn đề về an toàn thông tin và đã được giao trách nhiệm phải đảm bảo an toàn hệ thống thông tin chưa? Thông thường, các giải pháp khi mới xây dựng xong thì tốt nhưng chỉ sau một thời gian hoạt động sẽ bộc lộ nhiều điểm yếu mà nguyên nhân chính là do yếu tố con người.

Chúng ta biết bảo mật đi kèm với sự không thuận tiện cho người dùng và dễ dàng làm cho họ từ bỏ các biện pháp bảo mật. Tuy nhiên, trong các TC/DN, an toàn thông tin luôn phải được đưa lên hàng đầu và tất cả các thành viên đều phải tuân thủ điều này.

Vai trò của chính sách BMTT

Để đảm bảo an toàn hệ thống, cần phải có các yếu tố: Con người, Quy trình, Giải pháp, Các tiêu chuẩn quốc tế.

Hiện tại, các TC/DN mới thực hiện ở việc xây dựng giải pháp, còn các yếu tố khác như con người, qui trình, tiêu chuẩn quốc tế chưa được chú trọng nhiều. Các yếu tố đó chưa tốt, chưa gắn kết và chưa được giám sát, bởi còn thiếu một yếu tố rất quan trọng, đó là chính sách BMTT.

Chính sách bảo mật là tài liệu cấp cao đặc thù, tập hợp các luật đặc biệt của TC/DN như những yêu cầu, quy định mà những người của TC/DN đó phải thực hiện để đạt được các mục tiêu về an toàn thông tin. Chính sách bảo mật sẽ được người đứng đầu TC/DN phê chuẩn và ban hành thực hiện. Nó được ví như bộ luật của TC/DN mà mọi thành viên trong TC/DN, các đối tác, khách hàng quan hệ đều phải tuân thủ. Chính sách bảo mật sẽ là tiền đề để doanh nghiệp xây dựng các giải pháp bảo mật, xây dựng những quy trình đảm bảo an toàn hệ thống, đưa ra các hướng dẫn thực hiện, gắn kết yếu tố con người, quản trị, công nghệ để thực hiện mục tiêu an toàn hệ thống. Đồng thời chính sách bảo mật cũng đưa ra nhận thức về an toàn thông tin, giao trách nhiệm về an toàn cho các thành viên của TC/DN, từ đó đảm bảo hệ thống được vận hành đúng quy trình, an toàn hơn.

Chính sách BMTT là cốt lõi, là trung tâm để có thể bắt đầu xây dựng các giải pháp an toàn thông tin. Từ bộ chính sách bảo mật, ngoài việc sẽ đưa ra được giải pháp an ninh toàn diện còn gắn với ý thức, trách nhiệm của thành viên trong TC/DN về an toàn thông tin. Từ lâu, hậu quả của việc không xây dựng chính sách BMTT mà chỉ có giải pháp an ninh đã khiến cho giải pháp trở nên không toàn diện và hiệu quả.

Mô hình Top-down trong chính sách BMTT

Thực tế là hiện nay, trong các TC/DN, chúng ta thấy đều xuất hiện “chính sách ngầm” về BMTT. Ví dụ như không được cài sniffer (phần mềm nghe lén) trong mạng, không được gửi e- mail mạo danh, không được sao chép tài liệu ra ngoài, không được dùng phần mềm không có bản quyền... Những chính sách này đều bàn thảo không chính thức, không được ban hành, và phổ biến rộng rãi. Điều này làm cho chính sách không còn hiệu lực, không gắn ý thức an toàn thông tin tới từng thành viên, không quy được trách nhiệm về pháp lý và trong nhiều trường hợp có thể còn xung đột với các văn bản ban hành.

Hiện tại, các TC/DN chỉ mới đưa ra các giải pháp công nghệ là chính và chưa xây dựng cùng với chính sách bảo mật. Mô hình mà họ đang xây dựng là theo mô hình bottom-up. Tức là xây dựng hạ tầng thông tin, giải pháp bảo mật trước rồi sau đó mới xây dựng chính sách bảo mật. Chính vì vậy, các giải pháp công nghệ xây dựng đều không toàn diện, không mang tính tổng thể đồng bộ, chi phí cao. Ví dụ: Đề xuất xây dựng hệ thống bảo mật mạng Firewall, IPS nhưng sau đó do hệ thống máy tính bị virus, tổ chức lại đề xuất giải pháp diệt virus. Khi thấy hệ thống không kiểm soát được việc truy cập mạng lại đề xuất giải pháp kiểm soát truy cập mạng NAC. Điều này thể hiện sự thiếu chiến lược toàn diện.

Theo khuyến cáo của các tổ chức trên thế giới, để xây dựng hệ thống an toàn thì nên xây dựng theo mô hình top- down tức là phải xây dựng chính sách bảo mật trước. Tổ chức thực thi theo chính sách bảo mật bao gồm con người, quy trình, giải pháp công nghệ, vật lý. Phương pháp này đạt được tính toàn diện, đồng bộ và lâu dài.

Trong các tài liệu chuẩn về an toàn thông tin như ISO27001 hay COBIT, nhiệm vụ xây dựng chính sách bảo mật đều được đặt lên đầu tiên trong lộ trình xây dựng hệ thống an toàn thông tin.

Chính sách bảo mật tác động đến toàn bộ hệ thống bao gồm phần mềm, phần cứng, truy cập, con người, các kết nối, hệ thống mạng, hạ tầng viễn thông. Để xây dựng được một bộ chính sách bảo mật tốt, trước tiên chúng ta cần xác định được các tài nguyên trong hệ thống, đánh giá mức độ quan trọng, phân loại chúng. Chỉ khi xác định được đủ các tài nguyên thì bộ chính sách viết ra mới bao quát được toàn bộ tất cả những gì cần phải bảo vệ. Bước tiếp theo sẽ là đánh giá các chức năng, quy trình hoạt động sử dụng các tài nguyên, sau đó, xác định tài nguyên nào cần được bảo vệ. Từ đó đưa ra các chính sách bảo mật bảo vệ các tài nguyên đó.

Kết luận

Như vậy, để đảm bảo an toàn hệ thống thông tin, chúng ta không những phải có giải pháp mà cần có con người, quy trình và cần áp dụng các tiêu chuẩn an toàn. Sự kết hợp giữa các yếu tố này để vận hành, quản trị nâng cấp hệ thống được an toàn hơn, những điều này đều xuất phát từ chính sách bảo mật của TC/DN. Đó là vấn đề cốt lõi để thực hiện: Xây dựng quy trình an toàn thông tin; Xây dựng các giải pháp an toàn thông tin; Áp dụng các tiêu chuẩn an toàn thông tin; Đưa ra các hướng dẫn thực hiện an toàn thông tin; Đưa ý thức an toàn thông tin vào các thành viên tổ chức; Đưa trách nhiệm an toàn thông tin vào các thành viên tổ chức; Tránh việc vi phạm an toàn thông tin dẫn tới vi phạm pháp luật. Tất cả những điều đó thể hiện chính sách bảo mật là rất quan trọng đối với TC/DN.